Nếu bạn có một hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ này không có nghĩa bạn chắc chắn mắc ung thư buồng trứng, nhưng bạn có nguy cơ cao hơn những người phụ nữ khác.
Ung thư buồng trứng - những yếu tố nguy cơ . Những yếu tố nguy cơ bao gồm:
Yếu tố nguy cơ 1: Sự thay đổi vềgen di truyền.[/i]
Yếu tố nguy cơ đặc trưng nhất của ung thư buồng trứng là có sự thay đổi về di truyền của 1 hoặc 2 gen được gọi là gen
ung thư vú[/b] 1 (BRCA1) và gen ung thư vú 2 (BRCA2). Những gen này ban đầu được xác định ở những gia đình có nhiều trường hợp mắc ung thư vú, đó là lý do chúng được đặt tên như thế), nhưng chúng cũng có mặt ở 5-10% ung thư buồng trứng. Bạn có nguy cơ đặc biệt cao mang những biến đổi di truyền này nếu bạn là dòng dõi Ashkenazi Jewish.
Bệnh di truyền khác được biết đến có liên quan đó là hội chứng ung thư đại trực tràng di truyền không đa polyp (HNPCC). Những cá thể trong gia đình HNPCC tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, đại tràng, buồng trứng, dạ dày, ruột non. Nguy cơ ung thư buồng trứng liên quan đến HNPCC thấp hơn ung thư buồng trứng liên quan đến sự biến đổi BRCA.
Yếu tố nguy cơ 2: Tiền sử gia đình.[/i]
Đôi khi, ung thư buồng trứng xảy ra ở nhiều hơn một thành viên trong một gia đình nhưng nó không là kết quả của bất kỳ
biến đổi gen di truyền nào được biết đến. Có tiền sử gia đình có người mắc ung thư buồng trứng tăng nguy cơ mắc bệnh của bạn, nhưng không cùng mức độ như khi mang những khiếm khuyết về gen di truyền. Nếu bạn có người thân thế hệ thứ nhất - mẹ, con gái hoặc chị em gái - mắc ung thư buồng trứng, nguy cơ của bạn phát triển bệnh là 5% trong suốt cuộc đời.
Yếu tố nguy cơ 3 : Độ tuổi.[/i]
Ung thư buồng trứng thường gặp nhất ở phụ nữ sau mãn kinh. Nguy cơ mắc ung thư buồng trứng của bạn tăng lên theo tuổi sau tuổi 70. Hầu hết ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở phụ nữ đã mãn kinh, bệnh cũng xảy ra ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Yếu tố nguy cơ 4: Thời kỳ mang thai.[/i]
Phụ nữ có ít nhất một lần mang thai có nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng thấp hơn. Tương tự,
bệnh viện ung th[/b]
ư[/b] việc dùng thuốc uống tránh thai có một vài tác dụng bảo vệ chống lại
ung thư buồng trứng.
Yếu tố nguy cơ 5: Mất khả năng sinh sản.[/i]
Nếu bạn có vấn đề khó khăn trong việc thụ thai, bạn có thể tăng nguy cơ. Mặc dù sự liên quan được biết đến ít, những nghiên cứu chỉ ra rằng mất khả năng sinh sản tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng, thậm chí không sử dụng thuốc sinh sản. Nguy cơ xuất hiện cao nhất ở phụ nữ mất khả năng sinh sản không rõ lý do và ở phụ nữ mất khả năng sinh sản mà chưa bao giờ thụ tinh. Nghiên cứu trong lĩnh vực này vẫn đang được tiến hành.
Yếu tố nguy cơ 6: Nang buồng trứng.[/i][/b]
Sự hình thành nang là một phần bình thường của quá trình rụng trứng ở phụ nữ chưa mãn kinh. Tuy nhiên, nang hình thành sau khi mãn kinh có nhiều khả năng trở thành ung thư hơn.
Khả năng ung thư tăng lên cùng với kích thước khối u và tuổi.
Yếu tố nguy cơ 7: Điều trị hormon thay thế.[/i][/b]
Những nghiên cứu về khả năng liên quan giữa việc dùng hormon estrogen và progestin ở phụ nữ đã mãn kinh và nguy cơ ung thư buồng trứng vẫn còn gây tranh cãi. Một vài nghiên cứu chỉ ra có tăng nhẹ nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ dùng estrogen sau mãn kinh, nhưng những nghiên cứu khác chỉ ra rằng không có tăng nguy cơ đáng kể. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu lớn đăng trên tạp chí ung thư quốc gia Mỹ vào tháng 11 năm 2006, các nhà nghiên cứu thông báo rằng phụ nữ không cắt tử cung và điều trị hoocmon mãn kinh trong 5 năm hoặc hơn đối mặt với nguy cơ đáng kể của ung thư buồng trứng.
Yếu tố nguy cơ 8: Béo phì ở tuổi trẻ.[/i]
Những nghiên cứu gợi ý rằng phụ nữ béo phì ở tuổi 18 tăng nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng trước khi mãn kinh. Béo phì cũng có thể liên quan đến ung thư buồng trứng tiến triển, điều này có thể dẫn đến bệnh tái phát trong thời gian ngắn hơn và giảm tỷ lệ sống thêm toàn bộ.